ican
Soạn Văn 11
Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

Soạn bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

Ngữ Văn 11: Soạn bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc chi tiết nhất, do đội ngũ Giáo viên ICAN trực tiếp biên soạn, giúp học sinh học Ngữ Văn 11 tốt hơn

Ican

VĂN TẾ NGHĨA SĨ CẦN GIUỘC

_Nguyễn Đình Chiểu_

PHẦN 1. TÁC GIẢ

I. HƯỚNG DẪN SOẠN BÀI

Câu 1: SGK – 59

Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) tự là Mạch Trạch, hiệu Trọng Phủ, Hối Trai, sinh ra huyện Bình Dương - tỉnh Gia Định nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh.

Xuất thân trong một gia đình nhà nho, ông là một người có tấm lòng yêu nước thương dân cả cuộc đời của ông đều có gắng đóng góp cho đất nước

Năm 1833, Nguyễn Đình Chiểu được cha đưa ra Huế ăn học.

Năm 1849, ra Huế thi thì được tin mẹ mất. Ông trở về chịu tang mẹ, ông vừa ốm nặng vừa thương khó mẹ nên bị mù cả hai mắt. Ông về quê dạy học và chuyển sang học thuốc.

Năm 1859, giặc Pháp tràn vào sông Bến Nghé, Nguyễn Đình Chiểu về Cần Giuộc, rồi Bến Tre. Đó là thời gian ông viết Chạy giặc, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Ông luôn giữ thái độ kiên trung, không hợp tác với giặc.

Cuộc đời của ông dù gặp phải nhiều sóng gió,thử thách nhưng ông luôn vượt qua mọi hoàn cảnh để sống có ý nghĩa: dạy học, chữa bệnh cứu người… Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương sáng cao đẹp về nhân cách, nghị lực và ý chí, về lòng yêu nước, thương dân và thái độ kiên trung, bất khuất trước kẻ thủ. Thơ văn ông là một bài ca đạo đức, nhân nghĩa, là tiếng nói yêu nước cất lên từ cuộc chiến đấu chống quân xâm lược, là thành tựu nghệ thuật xuất sắc mang đậm sắc thái Nam Bộ.

Câu 2: SGK – 59

+ Lí tưởng đạo đức:

Nguyễn Đình Chiểu là một nhà nho yêu nước nên tình thần đạo đức và nhân nghĩa mang màu sắc Nho giáo. Tuy nhiên nét riêng đó chính là phong cách gần gũi, giản dị, dân dã nên được đông đảo người dân đón nhận. Lí tưởng đạo đức đó là

Trai thời trung hiếu làm đầu

Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình.

 

Trung, hiếu, tiết hạnh là những chuẩn mực đạo đức , lễ nghĩa của đạo Nho. Trang nam nhi phải trung với vua, hiếu thảo với cha mẹ, phụ nữ phải có tứ đức. Nhưng sống và sáng tác trong thời đại phong ba bão táo, lại có những tư tưởng gần gũi, gắn bó với nhân dân nên tinh thần nhân nghĩa của ông đậm đà tính nhân dân và truyền thống dân tộc.

Nguyễn Đình Chiểu viết Lục Vân Tiên nhằm truyền đạo đức làm người chân chính qua những tấm gương: lòng thương cha, kính mẹ của Lục Vân Tiên, tình yêu chung thủy của Kiều Nguyệt Nga với Lục Vân Tiên, Hớn Minh, Tử Trực, ông Tiều, ông Ngư.. những con người nhân hậu, thủy chung, dám đấu tranh.

Nguyễn Đình Chiểu sáng tác thơ văn yêu nước ở thời kì đầu chống Pháp xâm lược bảo vệ Tổ quốc. Thơ văn yêu nước của ông là tiếng khóc than cho Tổ quốc buổi đầu gặp thương đau, đồng thời hết lòng ngợi ca những sĩ phu như Trương Định đã một lòng vì nước, vì dân. Ông dựng bức tượng đài bất tử về những người dân ấp, dân lân: "Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh" (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc). Ngay cả lúc bờ cõi đã chia đất khác, Nguyễn Đình Chiểu vẫn nuôi giữ một niềm tin vào ngày mai: "Một trận mưa nhuần rửa núi sông" (Xúc cảnh), vẫn kiên trì một thái độ bất khuất trước kẻ thù: "Sự đời thà khuất đôi tròng thịt – Lòng đạo xin tròn một tấm gương" (Ngư tiều y thuật vấn đáp)

+ Lòng yêu nước, thương dân:

Thơ văn của Nguyễn Đình Chiểu được sáng tác trong hoàn cảnh đất nước đau thương, giặc Pháp xâm lược, đời sống nhân dân vô cùng cực khổ.

Thơ văn ông ghi lại chân thực một thời đại đau thương của đất nước, khích lệ lòng căm thù giặc và ý chí cứu nước của nhân dân. Đồng thời nhiệt liệt biểu dương những anh hùng nghĩa sĩ đã chiến đấu, hi sinh cho Tổ Quốc:

“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan,

Ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ”.

“Sự đời thà khuất đôi tròng thịt,

Lòng đạo xin tròn một tấm gương”.

Ông còn tố cáo tội ác xâm lăng gây bao thảm họa cho nhân dân. Ông khóc than cho đất nước gặp buổi đau thương. Ông căm uất chửi thẳng vào mặt kẻ thù. Ông dựng lên bức tượng đài bất tử về người nông dân nghĩa sĩ.

Như vậy, các tác phẩm đã ghi lại chân thực một thời đau thương của đất nước, khích lệ lòng căm thù giặc và ý chí cứu nước của nhân dân ta, đồng thời nhiệt liệt biểu dương những anh hùng, nghĩa sĩ đã chiến đấu, hi sinh vì Tổ quốc. Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu đã đáp ứng xuất sắc những yêu cầu của cuộc sống và chiến đấu đương thời, có tác dụng động viên, khích lệ không nhỏ tình thần và ý chí cứu nước của nhân dân.

+ Sắc thái Nam Bộ độc đáo trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu:

Thể hiện rõ ở từng nhân vật trong tác phẩm của ông: Lời ăn tiếng nói mộc mạc, bình dị, tâm hồn nồng hậu, chất phác. Họ sống vô tư, phóng khoáng, ít bị ràng buộc bởi những phép tắc, lễ nghi và sẵn sàng xả thân vì nghĩa. Họ nóng nảy, bộc trực nhưng lại rất đằm thắm, ân tình. Đó là những nét rất riêng của người dân Nam Bộ trong vẻ đẹp chung của con người Việt Nam.

Các sáng tác thiên về chất chuyện kể, mang màu sắc diễn xướng rất phổ biến trong văn học dân gian Nam Bộ.

Có nhiều đóng góp, nhất là văn chương trữ tình đạo đức. Bút pháp trữ tình xuất phát từ cõi tâm trong sáng, nhiệt thành, đầy tình yêu thương, nồng đậm hơi thở của cuộc sống.

Câu 3: SGK – 59

Đối với Nguyễn Trãi:

Nhân nghĩa, trong quan điểm của Nguyễn Trãi, trước hết được gắn chặt với tư tưởng vì dân và an dân: “việc nhân nghĩa cốt ở an dân”, “dùng quân nhân nghĩa cứu dân khổ, đánh kẻ có tội”, “đại đức hiếu sinh, thần vũ bất sát, đem quân nhân nghĩa đi đánh dẹp cốt để an dân”(1). Như vậy, nhân nghĩa chính là yêu nước, thương dân, là đánh giặc cứu nước, cứu dân. Nguyễn Trãi đã coi “an dân” là mục đích của nhân nghĩa và “trừ bạo” là đối tượng, là phương tiện của nhân nghĩa.

Có một khía cạnh rất đáng quý trong tư tưởng về dân của Nguyễn Trãi, đó là tư tưởng trọng dân, biết ơn dân. “Dân chúng” vẫn luôn được ông nhắc tới và chú ý đề cao ngay cả sau khi kháng chiến đã thành công, đất nước đã giành được độc lập và bước vào xây dựng cuộc sống mới. Do đó, ông đã nhận thấy rất rõ những đức tính cao quý của nhân dân, hiểu được nguyện vọng tha thiết của nhân dân, thấy rõ được sức mạnh vĩ đại của nhân dân trong sáng tạo lịch sử.

Đặc biệt, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn biểu hiện ở lòng thương người, ở sự khoan dung độ lượng, thậm chí đối với cả kẻ thù.

Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn tiến xa hơn một bước nữa, đó là ý tưởng xây dựng một đất nước thái bình, bên trên vua thánh tôi hiền, bên dưới không còn tiếng giận oán sầu.

Đối với Nguyễn Đình Chiểu

Nhân nghĩa là đạo đức của nhân dân, là gốc rễ để trau dồi rèn dũa con người. Tư tưởng cao đep ấy được Nguyễn Đình Chiểu chuyển tải vào trong truyện thơ rất gần gũi với nhân dân nói chung và người dân Nam Bộ nói riêng. Như vậy, phạm trù nhân nghĩa mới thực sự mở rộng đến nhân dân, gần gũi thực sự với nhân dân. Đó thực sự là một bước tiến dài của tư tưởng.

Ông ca ngợi những đạo lí truyền thống của dân tộc, trung hiếu với vua, đặc biệt ông còn đề cao chữ tiết hạnh:

Trai thời trung hiếu làm đầu

Gái thời tiết hạnh làm câu trau mình.

II. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM

Giá trị nội dung

Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu và sự nghiệp thơ văn phong phú, đa dạng của ông. Qua đó ta thấy được tấm lòng của ông đối với đất nước, nhân dân.

Nghệ thuật:

Bút pháp trữ tình và mang đậm chất Nam Bộ

III. LUYỆN TẬP

Bài tập SGK – 59

+ Giải thích ý kiến của Xuân Diệu về Nguyễn Đình Chiểu: "Cái ưu ái đối với người lao động, sự kính mến họ là một đặc điểm của tâm hồn Đồ Chiểu"

Khẳng định đặc điểm cơ bản nhất trong tâm hồn của Nguyễn Đình Chiểu chính là sự ưu ái, kính mến của ông đối với những người dân lao động.

Tình cảm ấy xuất phát từ một trái tim giàu lòng yêu thương, luôn gắn bó cuộc đời, sự nghiệp văn học của mình, hướng tới đấu tranh vì quyền lợi cho những con người nghèo khổ, bất hạnh trong cuộc sống. Nhưng chính ông cũng phát hiện ra bản chất tốt đẹp và sự lương thiện ẩn đằng sau vẻ ngoài nhọc nhằn, lam lũ của họ

Chính điều ấy đã làm nên sự đặc biệt và sức sống bền bỉ cho các sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu. Thơ văn của ông có sức lay động mãnh liệt tới hàng triệu trái tim cũng là vì thế.

+ Biểu hiện của đặc điểm tâm hồn Nguyễn Đình Chiểu qua cuộc đời và sự nghiệp văn học của ông

Cuộc đời: Nguyễn Đình Chiều là một người con của mảnh đất Gia Định, từ nhỏ ông đã hiểu học, thông minh nhưng số phận nghiệt ngã khiến ông bị mù sau một trận ốm rồi đau mắt nặng. Không đầu hàng số phận, Nguyễn Đình Chiểu trở về quê mở trường dạy học và bốc thuốc chữa bệnh cho nhân dân. Cuộc đời ông gắn bó với nhân dân, nhất là những người dân nghèo. Con người ấy không màng tới danh lợi, cũng không dễ dàng khuất phục trước kẻ thù. Ông dũng cảm đứng lên đấu tranh với các thế lực kẻ thù, đứng về phía nhân dân mà lên án chúng. Trước những lời dụ dỗ ngon ngọt của Pháp, Nguyễn Đình Chiểu vẫn giữ được tấm lòng thủy chung, son sắt với nước, với dân cho đến hơi thở cuối cùng

Cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu là tấm gương sáng về nhân cách, nghị lực, ý chí, về lòng yêu nước, thương dân và thái độ kiên trung, bất khuất trước kẻ thù.

Sự nghiệp văn học: Thơ ông tập trung khắc họa hình ảnh của những người dân lao động nhỏ bé, bình thường (ông Ngư, ông tiều, ông quán, những người nghĩa sĩ nông dân Cần Giuộc,...). Lí tưởng đạo đức, nhân nghĩa và lòng yêu nước thương dân là hai nội dung chính trong các sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu.

Ông gửi gắm trong thơ của mình khao khát về một cuộc sống hạnh phúc, một xã hội ông băng và niềm tin vào bản chất tốt đẹp, lương thiện của người dân lao động nghèo. Ông yêu quý và trân trọng họ bởi chính những điều bình dị, chân chất ấy.

 

PHẦN 2. TÁC PHẨM

 

I. HƯỚNG DẪN SOẠN BÀI

Câu 1: SGK – 65

Văn tế: là loại văn thường gắn với phong tục tang lễ, nhằm bày tỏ lòng tiếc thương đối với người đã mất, văn tế thường có nội dung cơ bản, kể lại cuộc đời công đức phẩm hạnh của người đã mất và bày tỏ tấm lòng xót thương sâu sắc.

Bố cục bài văn tế thường có 4 đoạn:

Lung khởi (Mở đầu: thường nói nỗi đau ban đầu và nêu ấn tượng khái quát về người chết);

Thích thực (hồi tưởng công đức người chết);

Ai vãn (than tiếc người chết);

Kết (vừa tiếp tục than tiếc vừa nêu lên ý nghĩ của người đứng tế).

Bài Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu đã theo đúng bố cục của một bài văn tế truyền thống của thời trung đại, gồm 4 phần sau đây:

Lung khởi: (hai câu đầu): khái quát bối cảnh bão táp của thời đại và khẳng định ý nghĩa cái chết bất tử của người nghĩa sĩ nông dân.

Thích thực: (câu 3 - 15): tái hiện chân thực hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân, từ cuộc đời lao động vất vả, tủi cực bỗng chốc trở thành dũng sĩ đánh giặc, lập chiến công vẻ vang.

Ai vãn: (câu 16 - 27): đây là niềm xót thương đối với người đã khuất và tấm lòng xót thương sâu sắc của tác giả đối với những người đã hi sinh vì đất nước, đã hi sinh cho sự nghiệp đánh giặc cứu nước của dân tộc.

Kết: (hai câu cuối): ca ngợi linh hồn bất diệt của các nghĩa sĩ.

Câu 2: SGK – 65

+ Xuất thân: Những người chiến sĩ cần giuộc đều xuất thân từ những người nông dân chất phát cần cù làm ruộng, là những người dân ấp, dân lậm nhưng ở trong họ là tình yêu quê hương đất nước cao đẹp

+ Vẻ bề ngoài chỉ là những người nông dân nhưng họ lại có những phẩm chất rất đáng ngợi khen, do hoàn cảnh nghèo đói túng thiếu những người chiến sĩ này phải chăm chỉ làm ăn và có những chiến công vang dội cho dân cho nước.

+ Hành động chiến đấu:

Tình cảm: xuất hiện trong họ lòng căm thù giặc. Họ có một tấm lòng rất đáng quý dám xả thân vì đất nước, tuy tay cày tay bừa nhưng khi có chiến tranh họ sẵn sàng cầm súng để chiến đấu, không một kẻ thù nào có thể đánh bại ý chí kiên cường của những người chiến sĩ cần giuộc.

Thấy tàu giặc chạy trên sông : “ muốn tới ăn gan, muốn ra cắn cổ.”.

Họ nhận thức đất nước là một dải giang sơn gấm vóc, không thể để kẻ thù thôn tính.

Trang bị khi ra trận rất thô sơ và mộc mạc: manh áo vaỉ, ngọn tầm vông, rơm con cú, lưỡi dao phay. Những công cụ đó rất quen thuộc đối với nhân dân thì nay nó lại trở thành những công cụ chiến đấu đắc lực của những người chiến sĩ Cần Giuộc.

+ Nghệ thuật miêu tả:

Tạo hình ảnh đối lập giữa ta và địch: Kẻ thù (đạn nhỏ, đạn to, tàu thuốc, tàu đồng) >< Ta (vũ khí thô sơ, quân trang không có).

Sử dụng những động từ mạnh: đạp, lướt, xô, đâm, chém…

Những từ ngữ đan chéo: đâm ngang, chém ngược.

Nhịp câu ngắn gọn, nhanh mạnh, thể hiện sự căm thù giặc sâu sắc ở những người chiến sĩ.

Thể hiện sâu sắc tinh thần dũng cảm, vì đất nước xả thân quên mình.

Câu 3: SGK – 65

+ Tiếng khóc xót thương cho người đã mất: nghĩa sĩ, nhân dân. Đó là tiếng khóc của tác giả, của gia đình thân quyến, của nhân dân Nam Bộ và cả nước. Nguyễn Đình Chiểu đã nhân danh vận nước, nhân danh lịch sử mà khóc những người dân anh hùng xả thân cho Tổ quốc. Đấy là tiếng khóc có tầm vóc sử thi, tầm vóc thời đại.

+ Khóc cho người còn sống: mẹ già, vợ yếu con thơ. Giờ đây những người mẹ già đêm đến khóc con những người vợ yếu chạy đi tìm. Câu văn này cũng cho ta thấy được sự đồng cảm sâu sắc của nhà thơ đối với các gia đình liệt sĩ

+ Khóc cho quê hương, đất nước. Nhiều niềm cảm thương cộng lại thành nỗi đau sâu nặng, không chỉ ở trong lòng người mà dường như còn bao trùm khắp cỏ cây, sông núi, tất cả đều nhuốm màu tang tóc, bi thương:

Đoái sông Cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sầu giăng...

Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm nên bốn phía mây đen...

 

Đau thương vô hạn nhưng không bi lụy, vì trong nỗi đau vẫn có niềm cảm phục và tự hào đối với người nghĩa sĩ. Đó là những người dân bình thường đã dám đứng lên bảo vệ từng tấc đất ngọn rau, bát cơm manh áo của mình chống lại kẻ thù hung hãn, lây cái chất để làm rạng ngời một chân lí cao đẹp của thời đại - thà chết vinh còn hơn sống nhục.

Câu 4: SGK – 65

- Tác giả đã rất thành công trong việc xây dựng hình tượng nhân vật, kết hợp nhuần nhuyễn chất trữ tình và tính hiện thực, ngôn ngữ của bài văn tế giản dị gần gũi mang đạm chất Nam Bộ, những hình ảnh người chiến sĩ thật sinh động qua những tấm áo rách, những công cụ chiến đấu thô sơ nhưng tinh thần chiến đấu vẫn rất kiên cường.

+ Trước “trận nghĩa đánh Tây”, họ chỉ là những người nông dân “cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó”, chưa hề biết gì đến chiến trận, chưa bao giờ phải đánh giặc:

Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung; chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ.

Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm; tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa từng ngó.

+ Những người lính ở đây là những người nông dân hiền hậu, chất phác, quanh năm quen với ruộng đồng nhưng khi giặc đến, lòng căm thù sâu sắc đã khiến họ mạnh mẽ hơn, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ mảnh đất quê hương. Trong khi những “trang dẹp loạn rày đâu vắng” thì chính họ đã đứng ra ghé vai gánh vác sứ mệnh dân tộc lúc bây giờ. Mà gánh vác một cách tự nguyện, tự nhiên như vốn nó có trong máu thịt của họ vậy: “ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ”.

+ Hay trong câu miêu tả khi người chiến sĩ ra trận:

Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc củng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ đạn to, xô cửa xông lào, liều mình như chẳng có.

Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lủ ó sau, trối kệ tàu sắt tàu đồng súng nổ.

+ Hình tượng những người nghĩa sĩ áo vải được khắc nổi trên cái nền một trận công đồn ngất trời tráng khí: những động tác quyết liệt (đốt, chém, đạp, lướt, đâm,...), những tốc độ gấp gáp, bão táp (đạp rào/ lướt tới, đâm ngang/ chém ngược, xô cửa xông vào,...). Những người nghĩa sĩ áo vải đã trở thành những người anh hùng của một thời kì lịch sử đáng ghi nhớ.

- Bài văn tế là tiếng khóc bi tráng cho một thời kì lịch sử đau thương những vĩ đại cho cả một dân tộc

+ Câu văn nói về nỗi tiếc hận của người phải hi sinh khi sự nghiệp còn đang dang dở, chí nguyện chưa thành:

- Ôi! Những lăm lòng nghĩa lâu dùng; đâu biết xác phàm vội bỏ.

- Ôi thôi thôi! Chùa Tông Thạnh năm canh ưng đóng lạnh, tấm lòng son gửi lại bóng trăng rầm...

Câu văn như được viết bằng nước mắt xót thương vô hạn của Đồ Chiểu. Đó là niềm tiếc thương vô hạn với đồng bào, với một phần máu thịt của Tổ quốc. Dù họ hi sinh nhưng những công lao và hình ảnh của họ như những tượng đài trường tồn, sống mãi trong thơ văn Việt Nam.

II. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM

Giá trị nội dung

Tình cảm xót thương và tự hào của tác giả và bức tượng đài bi tráng về hình tượng người chiến sĩ nông dân được tái hiện qua bài văn tế.

Giá trị nghệ thuât:

Mang đậm sắc thái Nam Bộ: ngôn ngữ, hành động, tính cách nhân vật, ..

Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất trữ tình và chất hiện thực.

Nghệ thuật khắc họa nhân vật.

III. GỢI Ý LUYỆN TẬP

Bài 1: SGK – 65

Đọc diễn cảm bài văn tế.

Bài 2: SGK – 65

Giải thích nhận định của Giáo sư Trần Văn Giàu: "Cái sống được cha ông ta quan niệm là không thể tách rời với hai chữ nhục, vinh. Mà nhục hay là vinh là sự đánh giá theo thái độ chính trị đối với cuộc xâm lược của Tây: đánh Tây là vinh, theo Tây là nhục" về quan niệm sống của ông cha ta thời kì đầu kháng chiến chống Pháp

+ Truyền thống yêu nước, đánh giặc của ông cha ta đã có từ lâu đời (suốt 4000 năm dựng nước và giữ nước). Trong thời kì ấy, khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, vận mệnh dân tộc đang ở thế ngàn cân treo sợi tóc nên giữ vững nền độc lập dân tộc chính là nhiệm vụ cấp thiết của dân tộc.

+ Quan niệm sống của cha ông ta thời ấy không thể tách rời chữ vinh và nhục. Vinh tức là đánh Tây, chống lại sự xâm lược thì dù chết, vẫn là vinh. Còn nhục là khi theo Tây, chịu cúi đầu trước kẻ thù thì dù có sống cũng chỉ là sống nhục.

Thái độ kiên quyết, rõ ràng và quan niệm sống vinh - nhục đã biểu hiện cho lòng quyết tâm và ý chí đánh đuổi giặc ngoại xâm của nhân dân Việt Nam thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.

Những câu nói trong bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc thể hiện đầy đủ, sâu sắc triết lí nhân sinh đó:

+ Mười năm công vỡ ruộng, chưa ắt còn danh nổi như phao; một trận nghĩa đánh Tây, tuy là mất tiếng vang như mõ

+ Sống làm chi theo quân tà đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn; sống làm chi ở lính mã tà, chia rượu lạt, gặm bánh mì, nghe càng thêm hổ

+ Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh; hơn còn mà chịu đầu Tây, ở với man di rất khổ.

+ Sống đánh giặc, thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp nguyện trả thù kia

Quan niệm về sống vinh - nhục của những người nghĩa sĩ nông dân cũng chính là quan niệm sống của nhân dân ta thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Họ là những người nông dân quanh năm bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, cả cuộc đời chỉ biết làm ruộng chăm chỉ để kiếm kế sinh nhai. Thế nhưng chứng kiến sự bạo tàn, ngang ngược của thực dân Pháp, những con người ấy đã dũng cảm đứng lên chống lại. Trong tay họ chỉ có những vũ khí thô sơ, là cây gậy tầm vông, dao phay, con rơm, con cúi nhưng họ cũng khiến cho giặc khiếp sợ. Và dù, kết quả của cuộc chiến là họ phải hi sinh tính mạng của mình nhưng tiếng vang của họ vẫn còn mãi. Những con người ấy thà chết chứ không chịu khuất phục dưới gót giày của kẻ xâm lược. Họ chết trong vinh quang chứ nhất định không chịu sống trong nhục nhã, cúi đầu khúm núm với những kẻ ngoại lai ngay trên mảnh đất của ông cha mình.

 

Hy vọng Soạn bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của ICAN soạn thảo giúp bạn học tốt Ngữ Văn 11 tốt hơn. Chúc bạn học tập vui vẻ

 

Đánh giá (442)
ican
  • Một thương hiệu của 
    ICAN
  • ICAN
  • ICAN © 2023, All Rights Reserved.

  • Trụ sở Hồ Chí Minh: B0003 C/C Sarina, Khu đô thị Sala, Khu phố 3, Đường Hoàng Thế Thiện, Phường An Lợi Đông, TP. Thủ Đức

  • Văn phòng Hà Nội: Tòa nhà 25T2 Đường Hoàng Đạo Thúy, Phường Trung Hòa, Quận Cầu Giấy