ican
Ngữ Văn 11
Ôn tập phần Văn học (trang 202)

Soạn bài Ôn tập phần Văn học

Văn 11 bài Soạn bài Ôn tập phần Văn học: Lý thuyết trọng tâm từ Ican, Soạn bài Ôn tập phần Văn học giúp học sinh nắm vững kiến thức ngắn gọn

Ican

ÔN TẬP PHẦN VĂN HỌC

I. HƯỚNG DẪN SOẠN BÀI

Câu 1: SGK – 204

Văn học Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám năm 1945 hình thành hai bộ phận (văn học công khai và văn học không công khai) và phân hóa thành nhiều xu hướng khác nhau (văn học lãng mạn, văn học hiện thực và dòng văn học cách mạng) vừa đấu tranh với nhau, vừa bổ sung cho nhau để cùng phát triển.

Bộ phận văn học công khai: văn học hợp pháp, tồn tại trong vòng pháp luật của chính quyền thực dân phong kiến. Do khác nhau về quan điểm nghệ thuật và quan niệm thẩm mĩ nên bộ phận này phân thành nhiều xu hướng mà nổi bật nhất là hai xu hướng văn học lãng mạn và văn học hiện thực.

Bộ phận văn học không công khai: bị đặt ra ngoài vòng pháp luật, phải lưu hành bí mật.

Văn học lãng mạn là tiếng nói của cá nhân, khẳng định cái tôi, lạc lõng với thời cuộc mà tìm về với những cái đẹp của quá khứ, của tình yêu. Văn học lãng mạn là sự thức tỉnh cái tôi cá nhân, có ý thức chống lại những lễ giáo phong kiến hà khắc, lạc hậu, cổ hủ khiến cho người đọc thêm tin yêu cuộc sống, yêu và gắn bó với quê hương đất nước.

Văn học hiện thực: phản ánh hiện thực của xã hội thuộc địa nửa phong kiến thối nát, xấy xa, bất công với sự bóc lột đến tận cùng của giai cấp thống trị; khắc họa thành công và ám ảnh số phận, tình cảnh khốn khổ của những người dân lao động nghèo khổ, tầng lớp tiểu tư sản trí thức nghèo...Các tác phẩm thuộc dòng văn học này đều mang giá trị nhân đạo sâu sắc.

Văn học thời kì này phát triển với tốc độ hết sức nhanh chóng, phi thường và mau lẹ vì:

Sự thức tỉnh và trỗi dậy mạnh mẽ của cái tôi và ý thức về cái tôi các nhân. Các tác giả của tất cả các dòng văn học thời kì này được tiếp xúc với luồng tư tưởng mới, nhận thức của họ cũng được mở rộng hơn với quyền sống, quyền tự do, nhân quyền của con người trong nền văn hóa phương Tây.

Đặc điểm của xã hội thực dân nửa phong kiến ở nước ta hiện tại với rất nhiều vấn đề của cuộc sống trước nay chưa từng xuất hiện và tồn tại được đặt ra đòi hỏi văn học phải giải quyết: cuộc sống bế tắc, tuyệt vọng của tầng lớp tiểu tư sản trí thức; sự tha hóa, biến chất của người nông dân; sưu thuế nặng đè oặt lên đôi vai của nhân dân,...

Nhân dân cả nước đang trong cuộc đối đầu cam go, gay gắt với kẻ thù với những cuộc đấu tranh và phong trào nổi dậy nổ ra liên tiếp như vũ bão. Chính điều ấy đã trở thành hiện thực phản ánh và nguồn cảm hứng dồi dào cho bộ phận văn học không công khai (văn học cách mạng).

Câu 2: SGK – 204

Sự khác biệt giữa tiểu thuyết trung đại và tiểu thuyết hiện đại:

  • Tiểu thuyết trung đại:

+ Sử dụng cả chữ Hán và chữ Nôm, chủ yếu là chữ Hán vì chữ Hán được xem là chữ quốc ngữ thời trung đại, mãi đến cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX với truyện Kiều của Nguyễn Du, chữ Nôm mới khẳng định được vị trí của mình.

+ Các tiểu thuyết trung đại chú ý tới chi tiết, sự việc. Có nhiều tác phẩm, tác giả chỉ cần sử dụng một hành động cũng có thể nêu được bản chất và khắc sâu trong trí nhớ của người đọc về nhân vật ấy. Ví dụ như tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí của Ngô gia văn phái tác giả chỉ sử dụng một chi tiết Nguyễn Thị Huệ đập vỡ viên ngọc quý mà Chúa lúc nào cũng đeo bên mình để hả giận đã cho người đọc thấy được đó là con người ỷ được chúa yêu chiều mà lộng hành, kiêu kì. Còn chúa Trịnh Sâm là một kẻ háo sắc, nhu nhược. Hay chi tiết về Đặng Mậu Lân - em trai của Huệ, quây màn hãm hiếp con gái nhà lành giữa kinh đô đông đúc đã cho khắc họa được chân dung của một kẻ ngỗ ngược, ỷ thế chị làm điều xằng bậy, càn rỡ, không coi ai ra gì.

+ Cốt truyện của tiểu thuyết trung đại đơn giản, đơn tuyến. Truyện phát triển theo trình tự thời gian, sự kiện nào có trước được kể trước, sự việc nào có sau kể sau. Gần như không có sự đảo lộn thời gian và sự việc trong tác phẩm.

+ Vì chú trọng vào chi tiết, sự việc nên tâm lí và dòng tâm trạng, cảm xúc của nhân vật chỉ là sơ lược.

+ Các truyện thường được kể theo ngôi thứ 3, tức người kể chuyện là người có mặt ở khắp mọi nơi trong câu chuyện và như chứng kiến toàn bộ câu chuyện ấy

+ Truyện được kết cấu theo lối chương hồi

  • Tiểu thuyết hiện đại

+ Được viết bằng chữ quốc ngữ - chữ của dân tộc

+ Các tác phẩm đặc biệt chú ý tới việc khai thác thế giới bên trong của nhân vật: tâm trạng, cảm xúc, sự biến đổi tinh vi trong nhận thức của con người. Điều này cũng làm nên đặc sắc của tiểu thuyết hiện đại: con người được nhìn nhận trong cái nhìn đa diện, nhiều chiều, trong cuộc đấu tranh với chính mình để hoàn thiện bản thân.

+ Truyện có thể được kể theo trình tự thời gian tuyến tính hoặc có thể bị đảo lộn thời gian (kể về hiện tại trước rồi mới quay lại kể về quá khứ), theo sự phát triển của tâm lí nhân vật.

+ Nhân vật được xây dựng là con người phức tạp, đa dạng trong suy nghĩ, cảm xúc, cái xấu và cái ác luôn tồn tại cùng với cái tốt, cái lương thiện buộc con người phải đấu tranh với nó.

+ Ngôi kể trong truyện đa dạng: ngôi thứ ba, ngôi thứ nhất hoặc kết hợp nhiều ngôi kể trong cùng một tác phẩm

+ Truyện được kết cấu theo lối chương, đoạn

- Những yếu tố của tiểu thuyết trung đại tồn tại trong tiểu thuyết Cha con nghĩa nặng của Hồ Biểu Chánh:

+ Có khai thác tâm lí nhân vật Trần Văn Sửu xong việc đi sâu khai thác sự phức tạp trong cảm xúc, biến đổi trong suy nghĩ, cuộc đấu tranh nội tâm của nhân vật vẫn còn sơ sài, đơn giản

+ Truyện được kể theo ngôi thứ 3, những lời bình luận xen vào còn đơn giản, vụng về, không sắc sảo

+ Truyện được kể theo trình tự thời gian tuyến tính, không có nhiều đổi mới trong trình tự thời gian của sự việc.

Câu 3: SGK – 204

- Ở "Vi hành" của Nguyễn Ái Quốc, nó là tình huống nhầm lẫn của đôi trai gái người Pháp trong chuyến tàu điện ngầm: Nhìn người An Nam (nhân vật tỏi) và cho đó là Khái Định.

Tình huống nhầm lẫn tưởng như vô lí nhưng lại rất có lí, vì người Tây rất khó phân biệt được bộ mặt khác nhau của người da vàng (mắt xếch, mặt bủng như vỏ chanh có gì khác nhau đâu) cũng như người châu Âu, da trắng mũi lõ mắt xanh như nhau cả. Nhờ sự nhầm lẫn mà hình ảnh Khải Định được miêu tả vừa rất khách quan lại vừa thật hài hước.

- Trong "Tinh thần thể dục" của Nguyễn Công Hoan là tình huống trào phúng mâu thuẫn giữa mục đích có vẻ tốt đẹp và thực chất là tai hoạ. Mâu thuẫn trào phúng cơ bản của truvện là mâu thuẫn giữa chính quyền với người dân nghèo, giữa sự khuếch trương của bọn quan lại thực dân phong kiến với ước mong xin được ớ nhà của người dân, giữa việc đi cổ vũ với việc tìm mọi cách chạy chọt để được ở nhà thậm chí trốn tránh. Trên cơ sở những mâu thuẫn đổ, mỗi cảnh tình riêng lại có những nét hài hước riêng.

- Trong truyện ngắn "Chữ người tứ tù", Nguyễn Tuân đã xây dựng được một tình huống truyện độc đáo. Hai nhân vật Huấn Cao và quản ngục, trên bình diện xã hội, họ hoàn toàn đối lập nhau. Một người là tên "đại nghịch", cầm đầu cuộc nổi loạn nay bị bắt giam, đang chờ ngày ra pháp trường đê chịu tội; còn một người là quản ngục, kẻ đại diện cho cái trật tự xã hội dương thời. Nhưng họ đều có tâm hồn nghệ sĩ. Trên bình diện nghệ thuật, họ là tri âm, tri kỉ với nhau. Tạo dựng tình thế như vậy, đồng thời cho họ gặp nhau giữa chốn ngục tù, tối tăm nhơ bẩn, tạo nên một cuộc kì ngộ đáng nhớ và kì lạ.

Tình huống truyện độc đáo thể hiện ớ mối quan hệ éo le, đầy trớ trêu giữa những tâm hồn tri kỉ. Hai nhân vật được đặt trong một tình thế đối địch: Tử tù và quản ngục. Chính tình huống độc đáo này đã giúp làm nổi bật trọn vẹn vẻ đẹp của hình tượng Huấn Cao, đồng thời cũng làm sáng tỏ tấm lòng biệt nhỡn liên tài của viên quản ngục. Từ đó mà chủ đề của tác phẩm cũng được thể hiện sâu sắc.

- Trong "Chí Phèo" là tình huống bi kịch thể hiện màu thuẫn giữa khát vọng sống lương thiện, khát vọng làm người và tình trạng bị cự tuyệt quyền làm người.

Câu 4: SGK – 204

Đặc sắc về nghệ thuật của các truyện ngắn Hai đứa trẻ (Thạch Lam), Chữ người tử tù (Nguyễn Tuân), Chí Phèo (Nam Cao)

+ Hai đứa trẻ - Thạch Lam

Thuộc dòng văn học lãng mạn, truyện không có cốt truyện mà chỉ là được bắt đầu bằng những cảm xúc mơ hồ, mong manh của nhân vật. Chính vì thế, truyện cứ nhẹ nhàng, không có diễn biến, không có cao trào nhưng lại lôi cuốn người đọc.

Điểm nhìn trần thuật được đặt vào nhân vật Liên - một cô bé mới lớn, giàu lòng trắc ẩn và rất tinh tế. Việc đặt điểm nhìn trần thuật vào nhân vật ấy khiến cho tác giả có thể đi sâu khai thác tâm trạng và cảm xúc, sự biến đổi tinh tế trong suy nghĩ của nhân vật.

Xây dựng thành công sự đối lập giữa ánh sáng và bóng tối: số phận, sự quẩn quanh bế tắc của những kiếp người nơi phố huyện và khao khát có được một cuộc sống hạnh phúc hơn trong tương lai.

Ngôn ngữ nhẹ nhàng, giàu chất thơ, tinh tế, mang đậm phong cách của Thạch Lam

+ Chữ người tử tù - Nguyễn Tuân

Tình huống truyện độc đáo, đặt các nhân vật vào một cuộc gặp gỡ ở nơi đặc biệt - ngục tù. Tình huống éo le ấy khiến cho thời gian của câu chuyện như được kéo căng đến cực hạn, làm cho người đọc cũng cảm nhận được sự căng thẳng, nghẹt thở với mong muốn của viên quản ngục là xin kì được chữ của Huấn Cao trước khi ông bị xử tử.

Xây dựng cảnh tượng hiếm trước nay chưa từng có: cảnh cho chữ (vị thế của các nhân vật hoàn toàn bị đảo lộn)

Ngôn ngữ truyện giàu sức tạo hình, vừa cổ kính, vừa hiện đại

+ Chí Phèo - Nam Cao

Cốt truyện hấp dẫn, độc đáo, có mở đầu - diễn biến - cao trào và giải quyết nút thắt rất logic, hợp lí.

Xây dựng thành công nhân vật Chí Phèo - nhân vật điển hình trong hoàn cảnh điển hình, trở thành biểu tượng cho số phận của người nông dân Việt Nam trước cách mạng: bế tắc, tuyệt vọng, tha hóa và không có lối thoát.

Điểm nhìn và giọng điệu trần thuật biến đổi đa dạng, linh hoạt: lúc là lời của người dẫn truyện, lúc là lời độc thoại của nhân vật, khi là giọng thờ ơ, khách quan, lúc là giọng bình luận...

Nghệ thuật miêu tả tâm lí bậc thầy với ngòi bút lách sâu vào tâm lí nhân vật để phát hiện ra những thay đổi nhỏ nhất trong cảm xúc, suy nghĩ của Chí Phèo.

Câu 5: SGK – 204

Nét chính về nghệ thuật trào phúng của Vũ Trọng Phụng qua “Số đỏ”:

- Là cuốn tiểu thuyết hiện thực trào phúng, tố cáo xã hội thượng lưu bịp bợm, giả dối, chạy theo đồng tiền.

- Xã hội tri thức, bản chất đầy mâu thuẫn trào phúng thể hiện:

+ Nhan đề chứa tính hài hước

+ Một tình huống trào phúng cơ bản, nhà văn triển khai mâu thuẫn theo nhiều tình huống khác nhau tạo nên một màn đại hài kịch phong phú và rất biến hóa

+ Thủ phá đối lập làm nổi bật bản chất của nhân vật, xã hội

+ Giọng điệu miêu tả, mỉa mai, giễu nhại

+ Cách chơi chữ, so sánh bất ngờ, độc đáo

Bằng nghệ thuật trào phúng sắc bén trong Hạnh phúc một tang gia, tác giả phê phán thói trưởng giả, sự lố lăng, đồi bại của xã hội “thượng lưu” lúc bấy giờ.

Câu 6: SGK – 204:

Trong hai mâu thuẫn của vở kịch và cũng là của đoạn trích Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài, mâu thuẫn giữa nhân dân khốn khổ lầm than với bọn hôn quân bạo chúa cùng phe cánh của chúng đã được giải quyết dứt khoát theo quan điểm của nhân dân. Bạo chúa Lê Tương Dực bị giết; Nguyễn Vũ - đại thần của y - tự sát; đám cung nữ bị những kẻ nổi loạn nhục mạ, bắt bớ.

Thế nhưng mâu thuẫn thứ hai giữa quan điểm nghệ thuật cao siêu, thuần tuý của muôn đời với lợi ích thiết thực của quần chúng nhân dân chưa được tác giả giải quyết một cách dứt khoát. Điều đó được thể hiện ở chỗ Vũ Như Tô cho đến lúc chết vẫn không nhận ra sai lầm của mình, vẫn đinh ninh là mình vô tội. Vũ Như Tô không đứng về phía hôn quân Lê Tương Dực nhưng lại muốn mượn uy quyền và tiền bạc của hắn để thực hiện hoài bão nghệ thuật của mình, trong thực tế, đã vô tình gây thêm nỗi khổ cho nhân dân. Vũ Như Tô có tội hay có công? Vũ Như Tô đúng hay những người giết Vũ Như Tô đúng? Đó là những câu hỏi day dứt mà chính tác giả cũng không thể giải quyết một cách rạch ròi, dứt khoát được. Chính tác giả đã bày tỏ nỗi băn khoăn của mình qua lời đề từ: "Đài Cửu Trùng không thành, nên mừng hay nên tiếc?", chẳng biết "Như Tô phải hay những người giết Như Tô phải? Ta chẳng biết. Cầm bút chẳng qua cùng một bệnh với Đan Thiềm". Cách nêu vấn đề của tác giả như vậy là hợp lí. Bởi lẽ, chân lí chỉ thuộc về Vũ Như Tô một nửa, còn nửa kia lại thuộc về quần chúng nhân dân.

Tác giả đã giải quyết mâu thuẫn thứ nhất theo quan điểm nhân dân, nhưng không phê phán, quy tội cho Vũ Như Tô. Còn cách giải quyết thứ hai như thế cũng là thoả đáng.

Câu 7: SGK – 204

Trong Đời thừa, Nam Cao phát biểu: "Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, biết khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có".

Quan điểm của Nam Cao thể hiện sự ý thức sâu sắc và đòi hỏi rất cao sự tìm tòi sáng tạo của nhà văn trong nghề văn.

Ý kiến nêu trên khẳng định yêu cầu hết sức quan trọng đối với tác phẩm văn chương và nói rộng ra là đối với tác phẩm nghệ thuật và người nghệ sĩ đó là phải sáng tạo, phải phát hiện ra những cái mới.

Đây là ý kiến hoàn toàn đúng, phản ánh bản chất của nghệ thuật, đã được nhiều người thừa nhận và khẳng định theo những cách diễn đạt khác nhau. Ở đây, Nam Cao đã diễn đạt điều đó một cách ngắn gọn bằng những liên tưởng hàm súc và giàu hình ảnh. Soi tỏ vào sự nghiệp sáng tác của Nam Cao, chúng ta có thể thấy nhà văn thực hiện một cách nghiêm túc điều này. Trong cả hai mảng sáng tác của ông giai đoạn trước Cách mạng, hình ảnh những người nông dân và người trí thức đều mang những nét riêng không lẫn với các tác giả khác. Đơn cử như ở mảng đề tài về người nông dân chẳng hạn, Nam Cao cũng viết về người nông dân nhưng không đi lại con đường của Nguyễn Công Hoan hay Ngô Tất Tố, ông tìm cách khám phá quá trình con người bị tha hóa, bị đè nén đến mức trở thành lưu manh, từ đó ông đặt ra các vấn đề có ý nghĩa xã hội và nhân sinh. Con đường sáng tạo nghệ thuật của Nam Cao là con đường của con người không bao giờ muốn lặp lại mình. Đó là con người luôn muốn làm mới mình.

Câu 8: SGK – 204

Tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét diễn ra trong hoàn cảnh hai dòng họ có mối hận thù truyền kiếp. Tính chất thù hận của hai dòng họ được phản ánh trong lời thoại của Giu-li-ét năm lần ("Chàng hãy khước từ cha chàng và từ chối dòng họ của chàng đi...", "chỉ có tên họ chàng là thù địch của em thôi"; "nơi tử địa"; "họ mà bắt gặp anh..."; "Em chẳng đời nào muốn họ bắt gặp anh ở nơi đây"... ) và trong lời thoại của Rô-mê-ô ba lần ("Từ nay, tôi sẽ không bao giờ còn là Rô-mê-ô nữa"; "tôi,thù ghét cái tên tôi..."; "chẳng phải Rô-mê-ô cũng chẳng phải Môn-ta-ghiu...").

Nỗi ám ảnh về hận thù giữa hai dòng họ xuất hiện ở Giu-li-ét nhiều hơn. Điều đó cho thấy nỗi lo kèm theo sự ái ngại về hoàn cảnh của Giu-li-ét. Song Giu-li-ét không chỉ lo cho mình mà còn lo cho cả người mình yêu.

Thái độ của Rô-mê-ô đối với hận thù giữa hai dòng họ quyết liệt hơn. Chàng sẵn sàng từ bỏ dòng họ của mình, thể hiện sự dũng cảm để đến với tình yêu. Điều mà Rô-mê-ô sợ là sợ không có được, không chiếm được tình yêu của Giu-li-ét, sợ nàng nhìn mình bằng ánh mắt của sự hận thù ("ánh mắt của em còn nguy hiểm cho tôi hơn hai chục lưỡi kiếm của họ; em hãy nhìn tôi âu yếm là tôi chẳng ngại gì lòng hận thù của họ nữa đâu").

Cả Rô-mê-ô và Giu-li-ét đều ý thức được sự thù hận đó, song nỗi lo chung của hai người là lo họ không được yêu nhau, họ không có được tình yêu của nhau. Chính vì thế, cả hai đều nhắc tới hận thù song không nhằm khơi dậy, khoét sâu hận thù mà chỉ để hướng tới vượt lên trên hận thù, bất chấp hận thù. Sự thù hận của hai dòng họ tuy là cái nển nhưng tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét không xung đột với hận thù ấy. Đây là sự khẳng định quyết tâm xây đắp tình yêu của hai người.

So sánh tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét với tình yêu của Kim Trọng và Thuý Kiều, ta thấy:

- Cả hai mối tình đều rất đẹp, rất trong sáng, nồng nàn mà chân thành, hồn nhiên, không vụ lợi.

- Tuy thế, điểm khác nhau là tình yêu của Rô-mê-ô và Giu-li-ét ngay từ lúc nảy sinh, nó đã là một cuộc vật lộn đầy căng thẳng với những gian nan, thử thách (sự hận thù của hai dòng họ) và cuộc "chiến đấu" ấy đã theo họ cho tận đến khi họ tình nguyện chết vì nhau. Trong khi đó, dữ dội phong ba thực sự chỉ đến với Kim Trọng và Thuý Kiểu sau khi họ đã có những khoảng thời gian tươi đẹp. Tình yêu của Kim Trọng và Thuý Kiều là thứ tình yêu được thử lửa qua thời gian và qua nhiều biến cố. Nó có một kết thúc "có hậu" hơn.

II. KIẾN THỨC TRỌNG TÂM

+ Các giai đoạn của văn học Việt Nam.

+ Xã hội và nền văn hóa Việt Nam trong giai đoạn văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến cách mạng tháng 8 năm 1945.

+ Một số kiến thức cơ bản về các tác phẩm văn học Việt Nam hiện đại và nước ngoài đã học.

 

Gợi ý Văn 11 Soạn bài Ôn tập phần Văn học do giáo viên Ican trực tiếp biên soạn theo chương trình mới nhất. Chúc các bạn học tập vui vẻ.

 

Đánh giá (469)
ican
  • Một thương hiệu của 
    ICAN
  • ICAN
  • ICAN © 2023, All Rights Reserved.

  • Trụ sở Hồ Chí Minh: B0003 C/C Sarina, Khu đô thị Sala, Khu phố 3, Đường Hoàng Thế Thiện, Phường An Lợi Đông, TP. Thủ Đức

  • Văn phòng Hà Nội: Tòa nhà 25T2 Đường Hoàng Đạo Thúy, Phường Trung Hòa, Quận Cầu Giấy